Thực ra cơ cấu quân đội hiện đại đều thế. Ở Việt Nam, chỉ huy mỗi đơn vị đều có Tư lệnh/Chỉ huy trưởng (Commander) của đơn vị đó. Nhưng khác biệt ở danh xưng như sau:
- Từ cấp Trung đoàn (Regiment) trở xuống được gọi là cấp Trưởng, như Trung đoàn trưởng (Komreg, Regiment commander), Tiểu đoàn trưởng (Kombat, Battalion commander)... Không dùng Tư lệnh Trung đoàn, Tư lệnh Tiểu đoàn...
- Riêng cấp Lữ đoàn (Brigade), Sư đoàn (Division) th́ dùng hỗn hợp Tư lệnh Lữ đoàn/Lữ đoàn trưởng/Lữ trưởng và Tư lệnh Sư đoàn/Sư đoàn trưởng/Sư trưởng
- Từ cấp Quân đoàn (army corps), Quân khu th́ chỉ dùng danh xưng Tư lệnh.
Riêng về danh xưng Chỉ huy trưởng, trong tiếng Việt dùng để chỉ chức vụ tương đương Tư lệnh, nhưng quyền hành hạn chế hơn, thường chỉ làm công tác quản lư, giám sát và điều động đơn vị thuộc quyền theo lệnh của cấp trên.
Từ tương đương Secretary trong tiếng Việt có nhiều nghĩa khác nhau. Thông thường từ dùng chuyển ngữ là Thư kư, nhưng người Việt sẽ h́nh dung đó là một chức chạy việc vặt cho cấp trên, không như Bí thư là một chức vụ thực quyền. VD như chức vụ của ông Tập Cận B́nh là Zǒngshūj́ (总书记), tiếng Anh là General Secretary, nhưng nếu dịch trung thành qua tiếng Việt là Tổng thư kư th́ nó... nhẹ hều, phải dịch là Tổng bí thư mới đúng sức nặng của nó.
VD ở trên Secretary of the Army/Air Force/Navy/Marine Corps được dịch là Bí thư, là từ tôi chọn để sát nghĩa nhất cho từ Secretary. Tuy nhiên, theo thông dụng th́ chức vụ này vẫn được dịch là Bộ trưởng. Cũng tương tự chức vụ Secretary of Defense, nếu sát nghĩa phải dịch là Thư kư Quốc pḥng hoặc Bí thư Quốc pḥng, nhưng thông dụng đều dùng là Bộ trưởng Quốc pḥng, tương đương chức vụ Minister of Defence khi dùng cho chức vụ này tại Việt Nam.